10 ĐIỀU VỀ NHÀ RÔNG TÂY NGUYÊN
Nhà rông được xem là biểu tượng văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên, thể hiện giá trị vật chất và tinh thần trong đời sống đồng bào nơi đây.
1. Không phải dân tộc nào ở Tây Nguyên cũng có nhà rông. Nhà rông xuất hiện nhiều tại các buôn làng dân tộc khu vực phía bắc Tây Nguyên, đặc biệt ở hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Phía nam Tây Nguyên từ Ðắk Lắk trở vào, nhà rông xuất hiện thưa thớt dần.
2. Nhà rông là không gian sinh hoạt cộng đồng lớn nhất mỗi làng; nơi người dân trao đổi, thảo luận về các lĩnh vực hành chính, quân sự; nơi thực thi các luật tục, bảo tồn truyền thống và diễn ra những nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng.
3. Nhà rông không phải dùng để lưu trú, mặc dù có kết cấu và vật liệu tương tự nhà sàn dùng để ở (được xây dựng bằng gỗ, tre, cỏ tranh…), nhà rông mang các nét kiến trúc đặc sắc và cao, rộng hơn nhiều. Nhà rông càng cao và rộng thì càng thể hiện sự giàu có, thịnh vượng, sung túc, hùng mạnh của làng.
4. Đồng bào Tây Nguyên quan niệm nhà rông là nơi thu hút khí thiêng đất trời để bảo trợ cho dân làng. Do đó trong mỗi nhà rông đều có một nơi trang trọng để thờ các vật được người dân cho là thần linh trú ngụ như con dao, hòn đá, sừng trâu… Ngoài ra, nơi này còn như một bảo tàng lưu giữ các hiện vật truyền thống gắn liền với lịch sử hình thành buôn làng như cồng chiêng, trống, vũ khí, đầu các con vật hiến sinh trong ngày lễ.
5. Nhà rông là nơi quan trọng nhất làng nên đàn ông trong làng phải thay nhau ngủ qua đêm tại đây để trông coi. Một số làng làm đến hai nhà rông: “nhà rông cái” nhỏ và có mái thấp dành cho phụ nữ, “nhà rông đực” dành cho đàn ông có quy mô lớn hơn và trang trí công phu. Ngoài mục đích gìn giữ không gian thiêng, nhà rông là nơi người dân trao đổi những câu chuyện, kinh nghiệm trong đời sống. Nam nữ độc thân trong làng có thể quây quần tại nhà rông để thăm hỏi, tìm bạn đời, tuy nhiên không đi được phép đi quá giới hạn.
6. Mỗi dân tộc ở Tây Nguyên có kiểu làm nhà rông khác nhau. Kích thước nhà rông nhỏ và thấp nhất là của người Giẻ Triêng. Nhà rông của người Xê Ðăng cao vút. Nhà rông của người Gia Rai có mái mảnh, dẹt như lưỡi rìu. Nhà rông của người Ba Na to hơn nhà Gia Rai, có đường nét mềm mại và thường có các nhà sàn xung quanh. Điểm chung của các ngôi nhà rông là được xây cất trên một khoảng đất rộng, nằm ngay tại khu vực trung tâm của buôn làng.
7. Sàn nhà rông được thiết kế gắn liền với văn hóa quây quần uống rượu cần của đồng bào. Sàn thường được làm từ ván gỗ hay ống tre nứa đập dập, khi ghép không khít nhau mà các tấm cách nhau khoảng 1 cm. Nhờ thế mà khi người dân tập trung ăn uống, nước không bị chảy lênh láng ra sàn. Mặt khác, kiểu sàn này giúp cho việc vệ sinh nhà dễ dàng hơn.
8. Cầu thang nhà rông thường có 7 đến 9 bậc, tuy nhiên mỗi dân tộc lại có trang trí khác nhau. Trên thành và cột của cầu thang, người Gia Rai hay tạc hình quả bầu đựng nước, người Bana khắc hình ngọn cây rau dớn, còn người Giẻ Triêng, Xơ Đăng thường đẽo hình núm chiêng hoặc mũi thuyền.
9. Nếu như mái đình miền xuôi gắn liền với hình ảnh cây đa, thì nhà rông Tây Nguyên có cây nêu. Cây nêu được trang trí nhiều họa tiết, đặt ở phía trước sân chính giữa của ngôi nhà rông để phục vụ các lễ hội lớn của buôn làng. Theo quan niệm, cây nêu là nơi hội tụ các vị thần linh. Ở từng lễ hội, cây nêu mang một hình ảnh biểu tượng khác nhau như cây nêu trong lễ đâm trâu có 4 nhánh, lễ mừng lúa mới cây nêu chỉ có 1 nhánh…
10. Nhà rông chỉ gắn với buôn làng, không có nhà rông cấp tỉnh, cấp huyện hoặc nhà rông chung nhiều làng. Hiện nay, nhà rông truyền thống luôn được gìn giữ tại trung tâm làng. Một số địa điểm buôn làng có nhà rông hiện nay là nhà rông Kon Klor ở thành phố Kon Tum, làng Plei Phung, làng Kon So Lăl (huyện Chư Pah) và làng Đê K’tu (huyện Mang Yang) ở Gia Lai.
———